SKYPEC - A brand of trust !
booktour.vn

NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

   Gần đây, lợi dụng sự kiện Việt Nam triển khai Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, các thế lực thù địch, cơ hội đưa ra nhiều luận điệu xuyên tạc, phê phán thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm dẫn dắt, gieo rắc nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất, vị trí, vai trò của nhà nước pháp quyền XHCN; chia rẽ khối đại đoàn kết; mối quan hệ thể chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Để góp phần nhận diện, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, bài viết xin được trình bầy một số vấn đề sau đây:

 
 
  1. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xuất hiện rất sớm, ngay từ khi xuất hiện Nhà nước cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này tiếp tục được phát triển, nhất là trong thời kỳ cách mạng tư sản, phản ánh khát vọng của nhân dân về một Nhà nước tự do, dân chủ, nhân quyền, đối lập với sự độc đoán, độc tài của Nhà nước Nô lệ và chế độ chuyên chế, hà khắc của Nhà nước Phong kiến mà điển hình là các nhà tư tưởng: John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831).

   Theo quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại thì Nhà nước pháp quyền là Nhà nước bảo đảm tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phản ánh ý chí chung, lợi ích chung của nhân dân; thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân; chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình và yêu cầu công dân thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; có hình thức tổ chức quyền lực Nhà nước thích hợp bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân dân, tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; ngăn chặn được sự tùy tiện, lạm quyền từ phía Nhà nước, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. Bản chất nhà nước pháp quyền có thể quy về các giá trị có tính tổng quát: (1) là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. (2) được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ. (3) tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội. (4) quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực. (5) gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù hợp. (6) quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; nhà nước và xã hội.

   Nhà nước pháp quyền vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù. Tính phổ biến của nhà nước pháp quyền thể hiện một trình độ phát triển dân chủ. Do vậy, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước, mà được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Trên thực tế, chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản mới có cơ hội và điều kiện để xuất hiện nhà nước pháp quyền, từ đó có khái niệm nhà nước pháp quyền tư sản. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi hàng loạt yếu tố như: điều kiện về lịch sử, truyền thống, tâm lý xã hội của mỗi một dân tộc; các chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và môi trường địa lý... Các yếu tố này không chỉ tạo ra tính riêng biệt của mỗi một dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển của mình mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền.

   2. Quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam tuy không chính thức được đặt ra ngay từ buổi đầu thành lập Nhà nước công nông đầu tiên, nhưng tư tưởng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề cập khá sớm, lần đầu tiên chính là trong bản yêu sách 8 điểm Người gửi tới Hội nghị quốc tế hòa bình Vecxay (Pháp), ngày 18/6/1919.

   Sau Cách mạng Tháng Tám năm1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á) “… đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà độc lập, tự do, hạnh phúc” . Tiếp theo các kỳ Đại hội, Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa tư tưởng về Nhà nước pháp quyền, khi khẳng định “Nhà nước là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật” . Thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được Đảng ta chính thức đề cập trong Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng năm 1991: “Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân”. Từ đó đến nay, vấn đề xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trở thành một nội dung quan trọng trong đường lối của Đảng; trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2013) thuật ngữ Nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Hiến định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” . Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tiếp  tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Tổng kết 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta xác định: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh, phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.” . Có thể khẳng định, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là kết quả của sự vận dụng sáng tạo tư tưởng về nhà nước pháp quyền, lựa chọn phù hợp với đặc điểm lịch sử của đất nước, phù hợp với xu hướng của thời đại, hướng tới xây dựng xã hội tốt đẹp, đưa đến hạnh phúc cho nhân dân. 

   3. Trên cơ sở nghiêm túc đánh giá những mặt đạt được, nhìn nhận những hạn chế, thiếu sót của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta đa đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài, đặc biệt là Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Tuy nhiên, xuất phát từ mục tiêu muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ XHCN, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng đưa ra nhiều luận điệu nhằm phủ nhận vai trò của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mà chúng ta phải nhận diện và đấu tranh; các luận điệu đó là:

   Thứ nhất, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị phủ nhận nhà nước pháp quyền XHCN; đồng nhất nhà nước pháp quyền với Chủ nghĩa tư bản, cho rằng nhà nước pháp quyền là giá trị tiến bộ đã được các nước tư bản vận dụng, xây dựng, thực hiện từ lâu, bây giờ Việt Nam đặt lại vấn đề xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. 

   Như trên đã phân tích, tư tưởng về nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước gắn với một giai cấp mà là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm tổ chức hoạt động của nhà nước tuân theo quy định của pháp luật, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật, bảo đảm chủ quyền và quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia chứ không phải của CNTB hay CNXH. Mỗi một quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp. Cho nên luận điệu của các thế lực thù địch khi cho rằng chúng ta quay về chủ nghĩa tư bản là không đúng cả về mặt lịch sử và cả về mặt khoa học. 

   Thứ hai, các thế lực thù địch phủ nhận vai trò, xuyên tạc tính chất pháp quyền của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với các luận điệu phi lý như: nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không có tự do, dân chủ, nhân quyền, không phải là Nhà nước của dân do dân và vì dân. 

   Ngay trong tác phẩm Tuyên ngôn độc lập năm 1945, những giá trị cốt lõi nhất của tư tưởng pháp quyền được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã được triển khai thực hiện thông qua việc tổ chức Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, đoàn kết để bầu Quốc hội khóa I (6/1/1946), thành lập Chính phủ chính thức và thông qua Hiến pháp 1946, trong đó Điều 1 khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Cùng với sự phát triển của đất nước, những tiêu chuẩn về quyền con người càng được củng cố. Trên cơ sở này, Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, tham gia các điều ước quốc tế, phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng nhằm thực hiện tiế n bộ xã hội, mang lại những thành tựu quan trọng, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Mặt khác, mô hình nhà nước mà chúng ta lựa chọn là nhà nước pháp quyền XHCN. Điều này đã được ghi nhận tại khoản 1, Điều 2 Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”; cho nên, việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn, là minh chứng nhân dân là chủ thể tối cao, duy nhất của quyền lực Nhà nước. 

   Thứ ba, các phần tử phản động, cơ hội cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trên Hiến pháp và pháp luật nên không thể có nhà nước pháp quyền; không có đa nguyên đa đảng thì không có dân chủ; pháp chế XHCN là công cụ Đảng dùng để lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối Nhà nước; Nhà nước pháp quyền XHCN ở VN chỉ có đảng trị chứ không có pháp quyền, pháp trị, không có dân trị.  
Như vậy, các thế lực thù địch, cơ hội đã cố tình bóp méo khái niệm pháp chế XHCN. Trên thực tế, dân chủ là một giá trị xã hội được hình thành và đảm bảo bởi nhiều yếu tố trong đó có lực lượng cầm quyền trong xã hội, cơ chế quản lý xã hội và trình độ làm chủ của người dân, còn đa nguyên, đa đảng không phải là yếu tố duy nhất, nền tảng duy nhất đảm bảo cho một nền dân chủ đích thực. Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, vì vậy một đảng lãnh đạo không đồng nhất với độc tài lãnh đạo và càng không đồng nhất với mất dân chủ vì thế không nhất thiết cần phải đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ thực sự.

   Thứ tư, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, cho rằng để thoát ly vai trò lãnh đạo của Đảng thì nhà nước phải xây dựng theo mô hình nhà nước “tam quyền phân lập”. 

   Vậy nhưng thực tế, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, những giá trị tiến bộ về quyền cơ bản của con người mới không chỉ được hiến định mà còn được thừa nhận, được tôn trọng và thực hiện. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng Cộng sản Việt nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không “đứng trên pháp luật”, “đứng ngoài pháp luật”; các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền Việt Nam, quyền làm chủ của nhân dân được Đảng, Nhà nước bảo đảm và phát huy, được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, được tạo điều kiện phát triển toàn diện. Còn các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đều kiên quyết bị xử lý. 

   Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nguyện vọng và sự lựa chọn của nhân dân, phù hợp với xu hướng phát triển nhà nước trên thế giới, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng vận dụng sáng tạo và triển khai phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là nguyên tắc mang tính chất hiến định mang tính giai cấp sâu sắc. Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lãnh đạo Nhà nước, thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ thể và lãnh đạo tổ chức, nhân dân thực thi hiến pháp, pháp luật, chính sách. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan đảng, nhà nước; làm tham mưu cho đảng, phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước và bảo vệ Nhà nước. 

   Thứ năm, các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận công cuộc đấu tranh, phòng chống tham nhũng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; đưa ra luận điệu: “Chỉ có thể phòng chống được tham nhũng khi thực hiện thể chế tam quyền phân lập để kiểm soát quyền lực”.

   Trên thực tế, tam quyền phân lập không phải là mấu chốt để giải quyết vấn đề tham nhũng, tiêu cực, càng không phải là phương thức và giải pháp duy nhất để đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả như các thế lực thù địch rêu rao. Thực tiễn cho thấy, tham nhũng, tiêu cực sẽ xuất hiện khi mà hệ thống pháp luật Nhà nước còn bất cập, thiếu kín kẽ, thiếu chặt chẽ, thiếu sự công khai minh bạch, thiếu sự kiểm tra giám sát, hoặc có song chưa được duy trì thường xuyên có hiệu quả; vai trò của nhân dân, của dư luận chưa được phát huy đầy đủ; các hoạt động quản lý, giáo dục bị buông lỏng… Vì vậy, quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; đồng thời tiếp tục đấu tranh phòng chống, tham nhũng, tiêu cực phải thường xuyên, liên tục “Kiên quyết”, “Kiên trì”; phát huy những kết quả đã được; sự đồng tình ủng hộ của cán bộ, đảng viên và nhân dân; tăng cường thông tin tuyên truyền, định hướng tích cực; hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để tiến tới “không thể, không giám và không muốn” tham nhũng, tiêu cực.

   Chú thích:
  1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.27
  2. http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/1225
  3. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-nam-2013-215627.aspx 
  4. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t1, tr 118.
--------------------------------------
Đào Anh Kiệt - Đảng bộ cơ sở Chi nhánh Công ty SKYPEC Khu vực miền Trung.